Hệ thống kinh tế chính trị Trung Quốc vẫn được Hà Nội coi là mẫu mực cho tới khi trái bóng của Bắc Kinh bị vỡ tung trong năm 2020 này với dịch bệnh xuất phát từ Vũ Hán. Diễn đàn Kinh tế tuần này phỏng vấn kinh tế gia Nguyễn-Xuân Nghĩa về các nguy cơ tiềm ẩn trong nền kinh tế Trung Quốc.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc chỉ còn khoảng 6%, nhưng dịch bệnh siêu vi xuất phát từ Vũ Hán lại có thể đánh sụt đà tăng trưởng này chừng hai 2% nữa. Như vậy, câu hỏi đc đặt ra là mô thức kinh tế thị trường với màu sắc Trung Hoa có còn giá trị gì cho Việt Nam không?
Tiến sĩ kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa cho biết:
Đầu tiên, nói về tốc độ tăng trưởng, ta phải xét từ gốc là tăng từ đâu đến đâu? Từ một xứ hoang vu chỉ có một nhà máy mà xây thêm nhà máy thứ hai thì coi như đã đạt mức tăng trưởng 100%, nhưng so với các lân bang đã có cả trăm nhà máy, thì có xây thêm 20 cũng chỉ là tăng trưởng 20% mà thực tế là họ hơn ta gấp hai chục lần.
Nếu so sánh, một vài xứ châu Phi nghèo nhất như Chad cũng đạt tốc độ tăng trưởng là gần 60% hay Liberia là hơn 20%.
Một xứ bị chiến tranh như Iraq cũng có thể đạt tốc độ tăng trưởng gần 20% và bị nội loạn như Georgia cũng có tốc độ gần 10%.
Tăng trưởng vì vậy chưa là phát triển, và kinh tế Trung Quốc thực ra cũng có nhiều nhược điểm có thể dẫn tới biến động nguy hiểm trong năm nay mà Việt Nam nên để ý. Năm 2020 sẽ là một thử nghiệm gay gắt cho mô thức kinh tế thị trường trong vòng đai xã hội chủ nghĩa.
Người ta cứ so sánh Trung Hoa với một con rồng và cho rằng con rồng Trung Quốc đã thức giấc với thành quả kinh tế cho phép xứ này có khả năng quân sự và ngoại giao chưa từng thấy.
Nếu nhìn từ thời cách mạng tàn ác của Mao Trạch Đông thì điều đó không sai, nhưng nhìn rộng hơn thì Trung Quốc đang có vấn đề, con rồng đó có cái đầu như bã đậu và lãnh đạo xứ này ý thức được điều đó hơn lãnh đạo Việt Nam.
Động lực kinh tế khiến lãnh đạo hết là trung tâm độc quyền như xưa nhưng nạn tham nhũng đi cùng chế độ độc đảng cũng khiến lãnh đạo bị coi thường, khác hẳn cái thời mà cả nước như lên đồng dưới khẩu hiệu cách mạng của đảng. Năm nay còn có thể thấy sự phá sản của mô thức kinh tế thị trường nửa vời và Trung Quốc mà có loạn thì kinh tế Việt Nam tất bị ảnh hưởng nặng, lãnh đạo Việt Nam sẽ mất luôn chỗ tựa ở Bắc Kinh.
Vì sao ông không có vẻ lạc quan gì với thành quả kinh tế của Trung Quốc?
Chuyên gia Nguyễn-Xuân Nghĩa nói: – Vì lãnh đạo xứ này là Tổng bí thư Tập Cận Bình đã xây một kiến trúc nguy nga đồ xộ trên nền móng mong manh. Khi kiến trúc đó sụp đổ, chẳng những người dân và giới đầu tư bị thiệt hại mà các lân bang trong đó có Việt Nam cũng bị họa lây.
Trung quốc tiêu thụ năng lượng lớn nhất thế giới, nhập khẩu dầu thô nhiều hơn Hoa Kỳ, dù có trữ lượng thứ năm của địa cầu mà không có khả năng giải quyết nhu cầu đó trong khi lại gây ô nhiễm cho môi sinh.
Năm xưa, khi Việt Nam bị dịch cúm gà và cần tiêu hủy hàng vạn gia cầm, người ta dùng vỏ lốp xe để đốt, mọi người tất nhiên để ý đến trình độ tổ chức quá tệ của xã hội ta. Tại Trung Quốc, loại vấn đề như vậy phải nhân gấp trăm lần.
Sau vấn đề tổ chức, hãy nhìn vào mặt trái của tốc độ tăng trưởng Trung Quốc đang bị khủng hoảng về nhân dụng, với nạn thất nghiệp toàn thời và bán thời đã cao bằng dân số lao động của cả nước Mỹ, là hơn hai trăm triệu người. Mỗi tháng, xứ này phải tạo thêm một triệu việc làm mới nếu không thì loạn.
- Vì nạn thất nghiệp trá hình, việc cải cách doanh nghiệp nhà nước bị khựng, mà cũng đủ gây xáo trộn xã hội và rủi ro chính trị cho lãnh đạo. Sau loại tắc nghẽn về năng lượng và khủng hoảng về nhân dụng, Trung Quốc còn gặp nguy cơ cận kề là khủng hoảng tài chính, như trường hợp Việt Nam.
- Vì định hướng xã hội chủ nghĩa với màu sắc Trung Hoa, lãnh đạo Bắc Kinh muốn được lợi nhờ tự do kinh tế mà đảng vẫn nắm giữ quyền lực.
- Họ dùng hệ thống ngân hàng như trung tâm thu vét tài sản quốc dân và dồn cho khu vực quốc doanh với hậu quả là hệ thống ngân hàng ngập trong biển nợ làm nhiều doanh nghiệp đã phá sản.
Với dịch bệnh lan rộng từ Vũ Hán và tỉnh Hồ Bắc qua các tỉnh và thành phố trên toàn quốc thì số tiền trả nợ vay sẽ tăng gấp bội mà vẫn chưa thấm vào đâu.
Dĩ nhiên, giới đầu tư nước ngoài đang tháo chạy chả dại gì mà bù tiền vào khoản thâm hụt đó như thổi gió vào nhà trống. Việt Nam hiểu chuyện này, vì cũng có vấn đề tương tự. Nhưng, tình hình Hoa Lục còn nguy khốn hơn vì một hiện tượng khác là tẩu tán tư bản.
Truyền thông quốc tế cứ nói đến các khoản đầu tư nước ngoài được trút vào Hoa Lục mà không để ý đến loại đầu tư từ Hoa Lục chuyển qua xứ khác.
Ngoài hoạt động tẩu tán tài sản của đảng viên cán bộ muốn tự chuẩn bị một tương lai khá giả sau khi mất quyền, ta còn hoạt động tài chính của các ngân hàng và doanh nghiệp Hoa Lục vì họ thấy đem tiền đầu tư vào xứ khác lại có lợi và an toàn hơn. Nếu họ vững tin vào tương lai kinh tế xứ này theo mô thức xã hội chủ nghĩa với màu sắc Trung Quốc thì đã chẳng có nạn tẩu tán như vậy, và đây là một nghịch lý ít ai nói tới. Việt Nam nên nhìn vào hiện tượng đó.
Chưa kể tới một nghịch lý nữa là Trung Quốc dồn sức xuất khẩu để thu ngoại tệ và lại chuyển ngoại tệ đó ra ngoài?
Trong nền kinh tế tự do đích thực, người ta đầu tư vào nơi có lợi nhất, việc doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư ra ngoài để thu thập kiến thức, công nghệ hay mở rộng thị trường là điều có lợi cho xứ sở. Nhưng, hãy nhớ đến yêu cầu đầu tư rất lớn trong nội địa để tạo ra hàng triệu việc làm mỗi tháng.
Trung quốc cũng giống như Việt nam, họ bị bệnh hình thức rất nặng và tìm mọi cách tuyên truyền quá mức mô hình kinh tế XHCN của mình.
Dường như lãnh đạo xứ này chưa học được kinh nghiệm của Nhật Bản ba chục năm trước, là thắt lưng buộc bụng để xuất khẩu tối đa bất kể lời lỗ, chỉ cần gia tăng thị phần của mình là đủ, sau đó lại nhắm mắt đầu tư ra nước ngoài, thấy gì cũng mua, tưởng rằng đó là bành trướng thế lực và ảnh hưởng.
Cũng vậy, Trung Quốc đã thổi lên một trái bóng đầu tư với nhiều dự án có giá trị kinh tế thấp, điển hình là ở Thượng Hải hay Thâm Quyến, chưa nói tới bế tắc tại Hồng Công.
Lãnh đạo chậm tiến ưa khánh thành các công trình nguy nga để tiếng cho đời mà ít khi nghĩ đến dự án nhỏ bé mà thiết thực cho dân đen. Cho đến khi tất cả sụp đổ, như các nước Đông Á đã gặp năm 1997, thì lại đổ lỗi cho tư bản và đầu cơ….
Trái bóng Trung Quốc sẽ vỡ và nay đang vỡ trước mắt chúng ta?
Chúng ta có mọi chất liệu cần thiết cho một vụ bể bóng đầu tư. Kinh tế Trung Quốc phải hãm đà tăng trưởng để tránh nguy cơ lạm phát khi thị trường hết hồ hởi với ảo giác phồn thịnh và triển vọng đầu cơ.
Lãnh đạo xứ này đã hoàn tất các chương trình cải cách dễ làm nhất, nay là lúc lần tới những khâu phức tạp và rủi ro hơn thì lại bị tai họa dịch bệnh. Nền móng kinh tế quá mong manh cho nên nạn suy trầm nhỏ cũng thành suy thoái lớn và lập tức chuyển ra động loạn xã hội.
Nền kinh tế Trung quốc đang bị tác động rất xấu khi gặp tai họa bất ngờ từ bệnh dịch không thuốc chữa khiến hàng nghìn người chết trong thời gian ngắn, Việt nam lại đi học tập mô hình này nên độ rủi ro cũng rất cao.
Chúng ta không để ý là dễ đến vài thế kỷ, lần đầu tiên Việt Nam mới có một hệ thống lãnh đạo tồn tại mấy chục năm để học bài trong một đất nước hết còn chiến tranh.
Suốt thời gian đó, lãnh đạo xứ này học được gì và làm được gì cho sự tiến hóa của xã hội và quốc gia? Suốt thời gian đó, lối cải cách nửa vời chỉ cải tiến mức sống cho thiểu số đảng viên chứ đất nước vẫn chậm tiến lạc hậu nếu so với xứ khác, và hố sâu giàu nghèo vẫn đào sâu.
Việt Nam có nhiều vấn đề tương tự như Trung Quốc, với tiềm lực thấp hơn. Một vụ khủng hoảng tại Trung Quốc có thể là lời cảnh báo, đôi khi quá trễ.
Việt Nam không có một chính quyền mạnh, tức là có khả năng tác động và yểm trợ cho sinh hoạt xã hội và kinh tế quốc dân như tại các nước dân chủ, mà chỉ có một chính quyền độc tài nhưng bất lực trước các vấn đề sinh tử của đất nước.
Lầm lẫn ách độc tài với thực lực của nhà nước là sự lạc hậu sau khi cầm quyền gần nửa thế kỷ. Việt Nam cần cải cách nữa, khi những gì bùng nổ tại Trung Quốc là một cơ hội đổi mới.
Việt nam và Trung quốc đều có chung một thể chế theo Chủ nghĩa Cộng sản với mô hình kinh tế thị trường XHCN đầy mâu thuẫn và ảo tưởng.
Đảng Cộng sản ở cả 2 nước này cai trị người dân theo đường lối độc tài , mất dân chủ và thiếu vắng tự do. Chính điều đó đã dẫn tới tai họa ngày hôm nay cho nhân dân cả 2 nước, vì thiếu cơ chế kiểm tra và giám sát quyền lực bằng lực lượng chính trị đối lập cùng tự do báo chí.
Muốn phát triển bền vững và công bằng xã hội, chỉ còn con đường duy nhất là đảng và Chính phủ của cả Trung quốc và Việt nam phải trả lại quyền làm chủ thực sự cho người dân 2 nước.
Thu Thủy từ TpHCM – Thoibao.de (Tổng hợp)
Nguồn: RFA